Thu nhập ổn định – Tinshowbiz.net https://tinshowbiz.net Trang tin giải trí & Showbiz Việt Nam Thu, 11 Sep 2025 16:00:54 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tinshowbiz.net/2025/08/tinshowbiz.svg Thu nhập ổn định – Tinshowbiz.net https://tinshowbiz.net 32 32 Làng bánh đa truyền thống gần Hà Nội – nơi lưu giữ tinh hoa ẩm thực Việt https://tinshowbiz.net/lang-banh-da-truyen-thong-gan-ha-noi-noi-luu-giu-tinh-hoa-am-thuc-viet/ Thu, 11 Sep 2025 16:00:46 +0000 https://tinshowbiz.net/lang-banh-da-truyen-thong-gan-ha-noi-noi-luu-giu-tinh-hoa-am-thuc-viet/

Tại tỉnh Hưng Yên, làng Dụ Đại thuộc xã Quỳnh An vẫn tiếp tục duy trì và phát triển nghề làm bánh đa truyền thống, một nghề đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân nơi đây hàng trăm năm qua. Với khoảng 100km từ thủ đô Hà Nội, làng Dụ Đại mang đến một bức tranh làng quê Bắc Bộ thuần Việt yên bình và thân thiện. Bên cạnh việc trồng lúa, người dân Dụ Đại còn tạo ra những sản phẩm bánh đa chất lượng cao, góp phần làm giàu thêm ẩm thực địa phương.

Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung
Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung

Làng nghề Dụ Đại hiện là một trong những địa điểm sản xuất bánh đa truyền thống nổi tiếng, với hai loại bánh đa chính được sản xuất là bánh đa trắng và nâu gạch. Đây là những phần quan trọng không thể thiếu trong ẩm thực địa phương, đặc biệt là trong bát canh cá Quỳnh Côi nổi tiếng. Để tạo nên những sợi bánh đa thơm ngon và giữ được độ giòn, dai, đậm đà, người dân nơi đây đã rất kỹ lưỡng trong quá trình sản xuất, từ khâu chọn nguyên liệu đến quy trình sản xuất nghiêm ngặt.

Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung
Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung

Theo kinh nghiệm của các nghệ nhân và chủ cơ sở sản xuất, bí quyết để tạo nên thương hiệu bánh đa Dụ Đại nằm ở cách chọn gạo ngon và kỹ thuật xay bột cũng như tráng bánh ở độ chín phù hợp. Gạo được lựa chọn cẩn thận để đảm bảo chất lượng và hương vị đặc trưng của bánh đa. Sau khi tráng xong, bánh đa được xếp lên phên tre và phơi khắp các con đường, ngõ xóm trong làng. Cảnh tượng những phên bánh đa được phơi nghiêng dựa vào những bức tường đã tạo nên một hình ảnh bình yên và đặc trưng của làng nghề này.

Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung
Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung

Ông Nam, một người dân của làng Dụ Đại, chia sẻ rằng gia đình ông đã làm bánh đa trong nhiều chục năm qua và đây là một công việc đòi hỏi sự kiên nhẫn và vất vả. Để bánh đa có được độ ngon đặc trưng, gia đình ông cũng như các hộ khác trong làng thường phơi bánh đa tự nhiên khi thời tiết có nắng. Quá trình sản xuất bánh đa không chỉ đòi hỏi sự kiên nhẫn mà còn yêu cầu sự tỉ mỉ trong từng bước, từ khâu chuẩn bị nguyên liệu đến quá trình tráng và phơi bánh.

Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung
Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung

Nghề làm bánh đa không chỉ là cách để người dân lưu giữ hương vị và tinh hoa của truyền thống mà còn là nguồn thu nhập ổn định. Bằng việc nắm giữ bí quyết của làng nghề và áp dụng công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất, người dân Dụ Đại đã giúp cho làng nghề này có thêm sức sống và vươn mình để hội nhập. Sự phát triển của làng nghề bánh đa Dụ Đại đã góp phần vào việc bảo tồn các giá trị truyền thống và nâng cao đời sống của người dân địa phương.

Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung
Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung

Hiện nay, làng Dụ Đại có khoảng 100 hộ sản xuất bánh đa, với mỗi ngày trung bình các cơ sở sản xuất lớn cung cấp ra thị trường khoảng 30 tấn bánh thành phẩm. Sự phát triển của làng nghề không chỉ góp phần vào việc bảo tồn các giá trị truyền thống mà còn nâng cao đời sống của người dân địa phương. Làng bánh đa Dụ Đại đang trở thành một điểm đến lý tưởng cho những ai muốn khám phá và trải nghiệm văn hóa truyền thống của Việt Nam.

Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung
Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung
]]>
Người thương binh trở thành đại gia đá xây dựng ở Quảng Bình https://tinshowbiz.net/nguoi-thuong-binh-tro-thanh-dai-gia-da-xay-dung-o-quang-binh/ Tue, 09 Sep 2025 17:30:27 +0000 https://tinshowbiz.net/nguoi-thuong-binh-tro-thanh-dai-gia-da-xay-dung-o-quang-binh/

Ông Đinh Minh Đức, sinh năm 1952, là một người con của thôn Yên Thắng, xã Minh Hóa. Cuộc đời của ông đã trải qua nhiều thử thách và gian nan, từ chiến trường Quảng Trị đến những ngày tháng bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc. Những vết thương trên người ông là minh chứng cho sự hy sinh và cống hiến của ông cho Tổ quốc.

Công ty TNHH Liễu Lựu do ông Đinh Minh Đức làm giám đốc chuyên cung cấp đá xây dựng - Ảnh: X.V
Công ty TNHH Liễu Lựu do ông Đinh Minh Đức làm giám đốc chuyên cung cấp đá xây dựng – Ảnh: X.V

Thanh xuân ở chiến trường

Năm 1970, khi vừa tròn 18 tuổi, Đinh Minh Đức đã tạm gác bút nghiên tình nguyện lên đường nhập ngũ, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau 8 tháng huấn luyện, đơn vị của ông dự kiến tăng cường vào chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, khi hành quân đến Quảng Trị, đơn vị lại được lệnh tham gia chiến dịch Đường 9 – Nam Lào. Ông Đức kể lại những ngày tháng chiến đấu: “Ngày đó, đơn vị của chúng tôi chủ yếu chiến đấu trong rừng nên nhiều người bị sốt rét. Trong khó khăn, chúng tôi vẫn kiên cường bám rừng, bám trận địa đánh trả những cuộc phản kích bằng không quân của giặc Mỹ”. Cuối năm 1971, ông và nhiều đồng đội bị sốt rét nên phải chuyển ra Bắc điều trị, củng cố lực lượng cho một đơn vị khác.

Năm 1972, người lính trẻ Đinh Minh Đức tiếp tục quay lại chiến trường Quảng Trị, được biên chế vào Cục Hậu cần, Mặt trận B5. Nhiệm vụ của ông là đưa đón lực lượng dân công hỏa tuyến, bộ đội qua lại địa bàn, làm công tác giao liên. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần đưa người, phương tiện, thông tin ra vào chiến trường an toàn. Ông Đức nhớ lại: “Có lần, tôi nhận được thông tin địch sẽ ném bom vào một đơn vị vận tải vừa vận chuyển quân nhu, đạn dược đang tập kết trên địa bàn nên tức tốc lên đường báo tin. Đêm đó, một mình tôi đi trong rừng, vượt qua nhiều con suối. Có những lúc địch ném bom dọc đường nên phải tắt đèn, nhìn lên trời cắt hướng mà đi”. Sau nhiều năm gắn bó tuổi thanh xuân nơi chiến trường, năm 1988, ông Đức quyết định phục viên.

Khởi nghiệp trên quê hương

Trở về quê hương, cuộc sống gia đình ông Đức gặp muôn vàn khó khăn nhưng người lính năm xưa vẫn không chùn bước. Ông làm thuê nhiều nghề khác nhau để lo cho gia đình. Ông Đức kể: “Tôi về làng chỉ với bộ quần áo lính, trong tay không có đồng vốn nào. Con còn nhỏ, cha mẹ già yếu nên cuộc sống vô cùng cơ cực”. Thấy địa phương có trữ lượng đá xây dựng lớn trong khi người dân phải đi mua đá ở nơi khác nên ông đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng và người thân để thành lập công ty khai thác đá.

Năm 2008, Công ty TNHH Liễu Lựu, chuyên khai thác và chế biến đá xây dựng do ông Đức làm giám đốc được thành lập. Ban đầu, vốn ít, máy móc lạc hậu, thị trường tiêu thụ bấp bêng nên công ty gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ông Đức đã kiên trì tìm khách hàng, giữ chữ tín trong kinh doanh, dần dần công ty có chỗ đứng trên thị trường. Đến nay, công ty của ông đã được cấp phép khai thác, chế biến đá trên diện tích gần 4ha. Hệ thống máy móc được đầu tư hiện đại, gồm: Một máy chế biến đá có công suất 75 tấn/giờ, 4 máy xúc đào, 1 máy xúc lật, 2 ô tô tải và một giàn khoan đá… với mức đầu tư trên 4 tỉ đồng.

Hiện, công ty của ông đáp ứng khoảng 40% đá xây dựng trên địa bàn huyện Minh Hóa, doanh thu đạt khoảng 3 tỉ đồng, mang lại lợi nhuận cho gia đình ông khoảng 600 triệu đồng/năm. Không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho gia đình, công ty của ông Đức còn tạo việc làm thường xuyên cho 15 lao động địa phương với mức lương bình quân 10 triệu đồng/người/tháng.

Ông Đức đã nhận được nhiều giấy khen, bằng khen của các cấp, ngành về thành tích xuất sắc trong sản xuất, kinh doanh giỏi, thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đóng góp tích cực cho phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

]]>
Nâng cao thu nhập nhờ phát triển ngành măng với kỹ thuật tiên tiến https://tinshowbiz.net/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-voi-ky-thuat-tien-tien/ Mon, 04 Aug 2025 07:15:26 +0000 https://tinshowbiz.net/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-voi-ky-thuat-tien-tien/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>